Diễn biến Chiến_dịch_Đông_Carpath

Hướng Krosno - Dukla

Hình ảnh
Bản đồ hướng tấn công của Tập đoàn quân 38 từ ngày 8-9 đến 28-10-1944
Bài chi tiết: Trận đèo Dukla

Ngày 1 tháng 9, STAVKA và Bộ chỉ huy Phương diện quân Ukraina 1 nhận được những tin tức đáng ngại về cuộc khởi nghĩa Slovakia do phái đoàn quân sự Tiệp Khắc ở Moskva cung cấp. Tướng Heliodor Píka, trưởng phái đoàn cho biết quân Đức đã chiếm được thành phố Prešov nơi đóng quân của Bộ tham mưu các lực lượng khởi nghĩa Slovakia. Sư đoàn Slovakia 2 bị đứt liên lạc. Sư đoàn Slovakia 1 được lệnh vượt núi Carpath để về miền Trung Slovakia hội quân với các lực lượng chính ở Banska Bystrica. Tuy nhiên, đến ngày 1 tháng 9, không ai biết được sư đoàn này đang ở đâu. Kế hoạch sử dụng quân khởi nghĩa phối hợp với quân đổ bộ đường không chiếm giữa các con đèo qua dãy Carpath bị đổ vỡ, Phương diện quân Ukraina 1 buộc phải điều chỉnh lại kế hoạch tấn công, trước mắt nhằm chiếm lấy các tuyến đường đi qua dãy Carpath. Nguyên soái I. S. Konev đề nghị cho ông bảy ngày để chuẩn bị. Nhưng lúc 18 giờ ngày 2 tháng 9 năm 1944, Bộ Tổng tham mưu truyền đạt mệnh lệnh của Tổng tư lệnh tối cao:

1- Chuẩn bị và tiến hành chiến dịch ở nơi tiếp giáp giữa hai phương diện quân Ukraina 1 và 4. Từ các khu vực Krosno và Sanok đột kích theo hướng chung đến Prešov, vượt qua dãy núi "Rừng Đen" và nối liên lạc với các đơn vị Slovakia.2- Trong quá trình chiến dịch, cho phép sử dụng Quân đoàn Tiệp Khắc 1 và các đơn vị Slovakia đang bố trí ở Đông Bắc Prešov. Cần có sự thỏa thuận trước với các đơn vị này.3- Giao trách nhiệm tổ chức mũi tấn công cho tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1. Trong trường hợp cần thiết, tuyến phân giới giữa hai phương diện quân có thể thay đổi.4- Chiến dịch phải được bắt đầu muộn nhất là ngày 3 tháng 9.
— Thừa ủy quyền Tổng tư lệnh tối cao: A. I. Antonov.[15]

Nguyên soái I. S. Konev không phản đối mệnh lệnh tấn công nhưng ông lo ngại rằng sườn phía Nam của Phương diện quân Ukraina 1 sẽ bị hở. Còn nếu đưa thêm lực lượng đến đây, phương diện quân sẽ không đủ người và phương tiện để đột phá trên hướng Krosno - Dukla. Ông nói thẳng rằng Bộ Tổng tham mưu (Liên Xô) "không được thông minh cho lắm" khi tham mưu cho Tổng tư lệnh tối cao. Cuối cùng, chính I. S. Konev đã đưa ra được một đề nghị giúp tháo gỡ vướng mắc. 16 giờ 4 phút ngày 3 tháng 9 năm 1945, ông trả lời STAVKA:

1- Để tổ chức tấn công cho Tập đoàn quân 38, cần bổ tăng cường cho nó Trung đoàn pháo binh 17, ít nhất 2 lữ đoàn xe tăng (70 chiếc), Quân đoàn kỵ binh cơ giới cận vệ 1, 2 lữ đoàn hỏa tiến M-31, 2 trung đoàn hỏa tiễn M-13 và Quân đoàn Tiệp Khắc 1.2- Tập trung cụm xung kích ở Pshibuvka, Krasna, Odzhikon, Mala, Lyutcha, Banaruvka, Oparuvka (cách Krossno 5 đến 15 km về phía bắc và tây bắc).3- Thiết lập tuyến phòng thủ vững chắc tại Neplya và Odzhikon để che chắn sườn phải cho các quân xung kích tấn công theo hướng Dukla, Tylyava, Presov.4- Sử dụng 4 sư đoàn ở thê đội 1 để phá vỡ tuyến phòng thủ của đối phương. Thê đội 2 có 2 sư đoàn. Sau khi phá vỡ tuyến phòng thủ ở ngoại vi Dukla, Quân đoàn Tiệp Khắc 1, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1, 2 lữ đoàn xe tăng sẽ phát triển theo sau. Quân đoàn kỵ binh phải chiếm được Zmigrud. Sau đó tiếp tục phát triển về phía Tây đến Zborov, Bardetsa hoặc về phía nam tới Presov. Quân đoàn Tiệp Khắc 1 và hai lữ đoàn xe tăng sẽ phát triển theo hướng từ Dukla đi Presov.5- Trên hướng tây, bước đột phá tiếp theo là tấn công Sebnem, Jaslo, Osek, Smerekovets, Tylicz. Ba sư đoàn bộ binh cánh trái tổ chức phòng thủ, phối hợp với Phương diện quân Ukraina 4 khép chặt sườn ở phía đông nam Krosno.6- Sử dụng hai lữ đoàn đổ bộ đường không Tiệp Khắc nhảy dù xuống khu vực phía bắc Stropkov để tiếp cận vị trí của quân khởi nghĩa Slovakia khi điều kiện cho phép. Để thực hiện việc này, cần 50 máy bay Si-47 có tiêm kích yểm hộ.7- Đến ngày thứ ba của chiến dịch, chúng tôi sẽ thu hút các đơn vị Slovakia và quân du kích vào mũi tấn công này.8- Để đột phá phòng thủ của đối phương, chúng tôi sẽ xây dựng mật độ lên tới 140 pháo và súng cối (kể cả súng cối 82 mm) trên 1 km chính diện với từ 2 cơ số đạn dược.9- Tiến độ phát triển tấn công: Ngày đầu tiên: đạt đến tuyến Jaslo, Laystse, Zhegltse, Krosno; Ngày thứ hai: Osak, Zmigrud Nova Duklja, Rymanuv; Ngày thứ ba: đến biên giới Slovakia và đến ngày thứ năm của chiến dịch này thì đánh chiếm Stary Lubovna và Presov.10- Chúng tôi cần 5 ngày để sẵn sàng chiến đấu.11- Xét theo lợi ích của chiến dịch, tôi đề nghị tổ chức mũi tấn công thứ hai của Phương diện quân Ukraina 2 đánh vào hướng Miskolc - Budapest nên thu hút cả Phương diện quân Ukraina 4 tham gia đột kích từ khu vực Sanok đến Uzhgorod. Chỉ cần 4 sư đoàn là đủ. Nếu không, đề nghị Đại bản doanh chuyển cho chúng tôi 4 sư đoàn bộ binh của Phương diện quân Ukraina 4.
— I. S. Konev, K. V. Kraynyukhov. V. D. Solovsky.[3]

Nói cách khác, việc bao vây và tấn công Cụm Tác chiến Heinrici sẽ do cả hai Phương diện quân Ukraina 1 và 4 thực hiện. Mũi phụ công của Phương diện quân Ukraina 4 sẽ có tác dụng găm giữ và thu hút một phần binh lực quân Đức Quốc xã, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc tác chiến mũi chủ công của Phương diện quân Ukraina 1.

Lần này, STAVKA phê duyệt kế hoạch, kể cả kế hoạch phối hợp của Phương diện quân Ukraina 4. STAVKA không chỉ tăng cường cho Tập đoàn quân 38 hai lữ đoàn xe tăng mà còn cho phép điều toàn bộ Quân đoàn xe tăng 25, trong biên chế có 3 lữ đoàn xe tăng, 1 lữ đoàn cơ giới và 2 trung đoàn pháo tự hành tham chiến Chiều ngày 7 tháng 9, toàn bộ các đơn vị thuộc cánh quân xung kích tấn công đã tập kết xong ở các điểm xuất phát. Toàn bộ pháo binh đột phá, bao gồm cả các đơn vị Katyusha M-31 và M-13 đã vào vị trí.[10]

8 giờ 45 phút sáng ngày 8 tháng 9, 6 sư đoàn của Tập đoàn quân 38 bắt đầu tấn công sau một trận pháo kích kéo dài đến 125 phút. Trong giờ đầu, bộ binh và xe tăng trong dải tấn công của Quân đoàn 101 đã tiến lên được từ 1 đến 1,5 km trên con đường lớn dẫn vào Krosno. Đến giữa trưa ngày 8 tháng 9, một số tiểu đoàn tiên phong đã thâm nhập vào lớp phòng thủ thứ hai của quân Đức sâu từ 6 đến 8 km. Tuy nhiên, đó là kết quả đạt được trên hướng tấn công chính, có địa hình tương đối trống trải. Còn tại hai bên sườn của Quân đoàn bộ binh 101, tình hình không được thuận lợi như vậy. Rừng rậm và địa hình đồi núi đã cản trở khá nhiều sức công phá của bom và đạn pháo. Xạ giới bị nhiều vật cản làm cho tầm nhìn giảm thiểu. Không ít khẩu đội pháo phải dùng cách "bắn mò", hiệu quả thấp. Cuộc chiến diễn ra phức tạp trong dải tấn công của Quân đoàn bộ binh 52. Sư đoàn bộ binh 304 dẫm chân tại chỗ, buộc Sư đoàn 305 phải triển khai sang hướng Tây. Vấp phải hỏa lực dày đặc của quân Đức từ các boong ke, sư đoàn này cũng không tiến lên được. Tại dải tấn công của Quân đoàn bộ binh 67, quân đội Liên Xô cũng không chiếm trọn thành phố Krosno. Các trận đánh kéo dài trên các đường phố đe dọa làm vỡ tiến độ tấn công và tạo ra nguy cơ tổn thất cao trong ngày hôm sau.[10]

Đoán trước được cuộc tấn công của Quân đội Liên Xô khi cuộc khởi nghĩa Slovakia nổ ra trước thời điểm dự kiến. Trong 10 ngày từ 29 tháng 8 đến ngày 8 tháng 9 năm 1944, tướng Gotthard Heinrici đã điều động đến khu vực Dukla - Presov những lực lượng mạnh, chủ yếu là xe tăng. Trong đó, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã điều từ cánh trái sang cánh phải của nó Sư đoàn xe tăng 1 của trung tướng Eberhard Thunert, Sư đoàn xe tăng 8 của thiếu tướng Gottfried Frölich, Sư đoàn xe tăng 24 của thiếu tướng Gustav von Nostitz (lấy từ Tập đoàn quân 17) và Quân đoàn bộ binh 11 của thượng tướng Rudolf Bünau. Chỉ trong vòng 10 ngày, binh lực quân Đức tại khu vực Krosno - Dukla - Presov đã tăng lên gấp 3 lần, hình thành các cụm phòng thủ mạnh án ngữ các con đường qua núi Karpath.[16]

Các binh sĩ Quân đoàn Tiệp Khắc 1 đánh chiếm đèo Dukla, ngày 6 tháng 10 năm 1944

Đêm 8 rạng ngày 9 tháng 9, Phương diện quân Ukraina 1 vẫn không nhận được bất kỳ một tín hiệu nào từ những người khởi nghĩa Slovakia. Bộ chỉ huy Tập đoàn quân 38 quyết định đưa Quân đoàn Tiệp Khắc 1 vào trận và tấn công ở giữa đội hình. Quân đoàn xe tăng 25 tấn công bên cánh phải Quân đoàn bộ binh 101. Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 nhận nhiệm vụ đột kích sâu đến Meystsye. Mặc dù tinh thần chiến đấu của các binh sĩ tình nguỵện Tiệp Khắc rất cao nhưng trong đội ngũ cán bộ chỉ huy cao cấp của Quân đoàn Tiệp Khắc 1 lại xuất hiện những trục trặc. Tướng Jan Kratochvíl, chỉ huy trưởng quân đoàn này đã không bám sát trận địa và giữ liên lạc thường xuyên với các sư đoàn. Ông ta đóng sở chỉ huy cách tiền duyên đến 25 km nên hầu như không nắm được tình hình chiến đấu của các sư đoàn, lữ đoàn của mình. Quân đoàn cũng không tiến hành trinh sát chiến đấu như quy định của điều lệnh tác chiến bộ binh nên không thể chế áp các hỏa điểm phòng thủ của quân Đức. Trong ngày chiến đấu đầu tiên, Quân đoàn Tiệp Khắc 1 đã chịu những thiệt hại đáng kể. Các tiểu đoàn của Lữ đoàn 3 đã bị mất một nửa quân số. Vị trí tiếp giáp giữa các lữ đoàn cũng lỏng lẻo, đội hình tấn công xộc xệch.[17] Cuối ngày 9 tháng 9, lấy cớ sương mù che phủ địa hình, tướng Jan Kratochvíl tự ý thay đổi hướng tấn công, làm cho Lữ đoàn xe tăng 111 (Quân đoàn xe tăng 25 - Liên Xô) không có bộ binh yểm hộ và chịu một số thiệt hại đáng kể. 12 xe tăng T-34 bị bắn cháy trước phòng tuyến của quân Đức. Các tiểu đoàn 3 và 5 của Lữ đoàn 3 tiếp tục bị tiêu hao.[18] Lúc 2 giờ 15 phút ngày 10 tháng 9, Nguyên soái I. S. Konev ra lệnh cách chức tướng Jan Kratochvíl và chỉ định tướng Ludvik Svoboda, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Tiệp Khắc 1 giữ chức vụ chỉ huy trưởng Quân đoàn Tiệp Khắc 1. Mệnh lệnh này đã được I. V. Stalin phê duyệt.[3]

Ngày 10 tháng 9, tướng Gotthard Heinrici tăng viện cho cụm quân phòng thủ tại khu vực Novo Dukla Sư đoàn bộ binh xung kích 78, Sư đoàn bộ binh 544 và Trung đoàn pháo tự hành của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức), củng cố tuyến phòng thủ trên con đường chính dẫn đến đèo Dukla. Trong các ngày 10 tháng 9 và sang đến ngày 11 tháng 9, các sư đoàn bộ binh 78 và 544 (Đức) tiến hành các cuộc phản kích vào bên sườn phải của Quân đoàn bộ binh 52 (Liên Xô). Tốc độ tấn công của quân đội Liên Xô tiếp tục giảm. Mỗi ngày, các sư đoàn phải chật vật lắm mới vượt qua được vài km trong điều kiện pháo binh không thể chế áp các hỏa điểm của quân Đức. Lợi dụng quân Đức tập trung chặn kích trên hướng Potok, ngày 12 tháng 9 năm 1944, nguyên soái I. S. Konev điều Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 đến khu vực Krosno và đánh chiếm thành phố này hồi 2 giờ 40 phút cùng ngày. Trong cả ngày 12 tháng 9, Quân đoàn Tiệp Khắc 1 đã giành giật điểm cao 534 với quân Đức và kết quả bất phân thắng bại. Quân đoàn Tiệp Khắc 1 chỉ kiểm soát được nửa phía Bắc của quả núi này. Cũng trong ngày 12 tháng 9, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 được tung vào trận tại khu vực Gloystse (Glojsce), cách Dukla 6 đến 8 km về hướng Tây Bắc, nơi mà tuyến phòng thủ của quân Đức mỏng hơn các chỗ khác.[19]

Ngày 13 tháng 9, với sự tăng cường của Sư đoàn bộ binh 183 (Liên Xô), Quân đoàn Tiệp Khắc 1 chiếm được điểm cao 534 và dùng nó làm bàn đạp để phát triển tấn công về phía Nam. Các khẩu đội hỏa tiễn BM-13 và pháo nòng dài được điều đến điểm cao này để tiếp tục yểm hộ cho các cuộc tấn công. Ngày 12 tháng 9, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 tấn công trên hướng Hạ Polyansky (Huta Polanska) đã vấp phải tuyến phòng thủ của Sư đoàn bộ binh 75 (Đức) có sự yểm hộ của Trung đoàn xe tăng 491 (Đức) gồm các xe tăng Tiger I, Panther và phải dừng lại trên biên giới Ba Lan - Tiệp Khắc ở Hạ Polyansky. Ở phía sau quân đoàn này, từ hướng Kramono (???) và Polyana (???), Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) tổ chức đột kích từ hai hướng vào phía Bắc Kremono (???), cắt đứt Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 (Liên Xô) khỏi chủ lực Tập đoàn quân 38. Trong một tuần sau đó, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 (Liên Xô) phải chiến đấu trong vòng vây để tìm đường về với quân nhà. Ở một số nơi, đã diễn ra những trận đánh giáp là cà giữa kỵ binh Liên Xô và bộ binh Đức. Quân đội Liên Xô phải tiếp tế cho Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 bằng đường không.[20]

Các binh sĩ Quân đoàn Tiệp Khắc 1 làm lễ cắm cột mốc biên giới quốc gia tại khu vực đèo Dukla

Ngày 14 tháng 9, Quân đoàn bộ binh 67 vượt qua được các chốt phòng thủ của quân Đức trên đèo Tiểu Dukla, đánh chiếm thị trấn Duklya và bắt đầu tấn công đến thị trấn Tylyava (Tylawa). Trước tình thế thất lợi của Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1, ngày 16 tháng 9 năm 1944, Nguyên soái I. S. Konev tung Quân đoàn xe tăng cận vệ 4 của tướng P. P. Pluboyarov vào dải tấn công của Quân đoàn bộ binh 101. Mặc dù chỉ có trong tay 59 xe tăng và 9 pháo tự hành, ngày 18 tháng 9, Quân đoàn xe tăng cận vệ 4 (Liên Xô) đã đột nhập được vào thị trấn Dukla. Quân Đức tiếp tục dồn binh lực để giữ đèo Dukla chính. Ngày 17 tháng 9, Sư đoàn xe tăng 1 và Sư đoàn bộ binh 359 (Đức) được chuyển từ khu vực Radomyszl (???) (Ba Lan) đến khu vực đèo Dukla. Ngày 18 tháng 9, tướng Gotthard Heinrici đã tập hợp được tại khu vực xung quanh Dukla 5 trung đoàn xe tăng của các sư đoàn xe tăng 1, 8, 24 có 180 xe tăng và pháo tự hành cùng các sư đoàn bộ binh 78 và 208 (Đức). Cuộc chiến giành giật con đèo huyết mạnh băng qua núi Carpath chuyển sang giai đoạn ác liệt nhất trong toàn bộ chiến dịch. Ngày 20 tháng 9, sau khi chiến dịch Lvov-Sandomierz kết thúc thắng lợi, nguyên soái I. S. Konev tiếp tục tung Quân đoàn xe tăng 31 của tướng V. Ye. Grigoryev vào các trận đánh dưới chân đèo Đại Dukla.[15]

Ngày 23 tháng 9, sau hơn một tuần chiến đấu trong vòng vây của quân Đức, chủ lực Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 (Liên Xô) đã tìm được con đường rút lui qua điểm cao 720 về Hạ Polyanska và gặp Quân đoàn bộ binh 101 (Liên Xô) tại điểm cao 728, phía đông Hạ Polyanska. Quân đoàn này bị thiệt hại khá nặng, chỉ có 37% số ngựa và hơn 30% số pháo được đưa ra khỏi vòng vây. Trong khi đó, các trận đánh trong khu vực đèo Dukla vẫn diễn ra phức tạp. Pháo binh Liên Xô luôn tụt lại sau do thiếu sức kéo vượt núi. Bộ binh sơn chiến Liên Xô phải giành giật từng điểm cao, từng sườn núi với bộ binh Đức. Ngày 24 tháng 9, Quân đoàn xe tăng cận vệ 4 (Liên Xô) với sự trợ giúp của công binh sơn chiến đã đột phá qua một dãy hỏa điểm trong các khe núi ở phía Tây Tylawa và đánh chiếm điểm cao 676 trên biên giới Ba Lan - Tiệp Khắc, hình thành mũi vu hồi phía tây vào cụm quân Đức tại đèo Dukla. Ngày 29 tháng 9, Quân đoàn xe tăng 31 phối hợp với Quân đoàn bộ binh 67 cũng đánh chiếm điểm cao 685 phía Tây đèo Dukla chính, hình thành mũi tấn công phía Đông. Ngày 1 tháng 10, Tập đoàn quân 38 (Liên Xô) mở cuộc tổng công kích vào cụm quân Đức đang phòng thủ xung quanh khu vực đèo Dukla chính. Ngày 4 tháng 10, Sư đoàn bộ binh 305 (Quân đoàn bộ binh 52), Lữ đoàn xe tăng cận vệ 12 và Lữ đoàn cơ giới cận vệ 3 (Quân đoàn xe tăng cận vệ 4) chọc thủng phòng tuyến của Sư đoàn bộ binh 357 (Đức) tại điểm giữa đèo Dukla chính và thị trấn Tsekhnaya (???) đánh chiếm làng Hạ Pisaka (???) và thị trấn Kapisov (???), cắt đứt con đường bộ từ đèo Dukla đi Presov, buộc cụm quân Đức tại đèo Dukla phải tháo lui. 6 giờ sáng ngày 6 tháng 10 năm 1944, Quân đoàn Tiệp Khắc 1 và Quân đoàn bộ binh 67 (Liên Xô) đã chiếm được đèo Dukla chính.[18][21]

Hướng Sanok - Skolye - Uzhgorod

Dân làng Vyšný Komárnik, Đông Slovakia chào đón các binh sĩ của Quân đoàn Tiệp Khắc 1, tháng 10 năm 1944

Các mũi tấn công của Phương diện quân Ukraina 4 có nhiệm vụ phân tán lực lượng của Cụm tập đoàn quân "Bắc Ukraina" (Đức) sang phía Đông và khép chặt sườn trái của Phương diện quân Ukraina 1. Ngoài ra, nó còn có nhiệm vụ hỗ trợ cho Phương diện quân Ukraina 2 đang tiến công vào đồng bằng Hungary bằng cách kìm giữ Tập đoàn quân 1 (Hungary) tại khu vực Đông Carath, không cho Bộ chỉ huy Đức rút tập đoàn quân này về bảo vệ khu vực Budepest - Miskolc. Mục tiêu của chiến dịch khá rộng. Nó trải dài từ Komancha (Koromla) qua Uzhgorod, Chop, Mukachevo đến Khust và Siget, nghĩa là bao trùm toàn bộ vùng núi phía Đông Slovakia. Địa bàn tác chiến rộng phần lớn là địa hình rừng núi, trong đó có những con đường đèo dốc từ trên 20 độ đến 40 độ và nhiều vực sâu, khe hẻm. Điều đó buộc Bộ Tổng tham mưu Liên Xô phải tăng cường các đơn vị chuyên trách đã chiến đấu ở vùng rừng núi Kavkaz trong các năm 1942-1944. Đó cũng chính là thành phần chủ của yếu của Phương diện quân Ukraina 4 (tái lập).

Giống như tuyến phòng ngự tại khu vực đèo Dukla, phòng tuyến Árpád của quân Đức tại dải phòng ngự từ Sanok qua Skolye đến thượng nguồn sông Prut được xây dựng và bố trí công phu dựa trên tuyến phòng thủ cũ của quân đội Áo - Hung tại vùng Galicia trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tuyến phòng thủ từ xa triển khai dưới chân dãy núi Đông Carpath gồm 3 lớp chiến hào với các trung tâm phòng ngự mạnh tại Lecko (Lesko), Losina (???), Turig (???), Korostov (???), Zaklja (???) và Jablonicksy (???) án ngữ các con đường dẫn đến dãy núi Đông Carpath. Tuyến phòng thủ thứ hai bố trí dọc theo đường phân thủy Đông Carpath trên biên giới Slovakia - Ba Lan và Slovakia - Ukraina cũng gồm ba tuyến chiến hào với các trung tâm phòng ngự nằm trên đỉnh các con đèo tại Dubensky (???), Lupkovsky (Lupkow), Ruskye Serdia (???), Uzhoksky (???), Veretsky (???), Jablonitsky (???) và Tatarsky (???). Quân đoàn sơn chiến 49 (Đức), một trong các đối thủ cũ của Tập đoàn quân 18 (Liên Xô) phòng ngự ở đoạn phía Tây của phòng tuyến. Tập đoàn quân 17 (Đức) phòng ngự đoạn giữa chiến tuyến. Ở phía Đông phòng tuyến là Tập đoàn quân 1 Hungary.[19]

Ngày 9 tháng 9 năm 1944, Tập đoàn quân cận vệ 1 (Liên Xô) bắt đầu tấn công từ khu vực Sanok xuống phía Nam theo hướng Bukovsko (Bukowsko) - Comancha (Komancza) để phối hợp với cuộc tấn công của Tập đoàn quân 38 (Phương diện quân Ukraina 1) theo kế hoạch đã được STAVKA phê duyệt ngày 3 tháng 9. Tuyến phòng thủ thứ nhất của Quân đoàn bộ binh 59 (Đức) nhanh chóng bị bẻ gãy sau các trận công kích của Quân đoàn bộ binh 107. Các quân đoàn bộ binh 11 và 30 cũng tiến lên được từ 3 đến 5 km sau ngày tấn công đầu tiên. Đến ngày thứ ba của chiến dịch, chủ lực Tập đoàn quân cận vệ 1 (Liên Xô) đã tiến đến chân các con đèo Dubensky, Lupkovaky và Ruskye Serdia. Tướng Friedrich Schulz điều Quân đoàn bộ binh 2 SS của tướng Matthias Kleinheisterkamp tiến ra chặn kích, án ngữ các con đường qua đèo ở phía Bắc Bukovsko. Ngày 12 tháng 9, quân Đức chặn được cuộc tấn công của Tập đoàn quân cận vệ 1 (Liên Xô). Những trận đánh đẫm máu giành giật các con đèo qua núi Carpath diễn ra ác liệt suốt hơn 10 ngày sau đó.[22]

Tập đoàn quân 18 (Liên Xô) cũng phát động cuộc tấn công từ Skolye để chiếm lấy con đèo Veretsky nằm án ngữ trên con đường tiếp cận thị trấn Uzhgorod nằm ở trung tâm miền Đông Slovakia. Cũng giống như cuộc tấn công của Tập đoàn quân cận vệ 1, các Quân đoàn bộ binh cận vệ 18 và 95 của Tập đoàn quân này chỉ vượt qua được lớp phòng thủ vòng ngoài do các sư đoàn bộ binh 6, 13 (Hungary) trấn giữ, phát triển sâu đến 12 km trên một chính diện rộng 30 km nhưng vẫn phải dừng lại trên sườn phía Bắc của dãy núi chính trước sức kháng cự ngày càng tăng lên của quân Đức. Quân đoàn sơn chiến 49 Đức dựa vào địa hình hiểm trở và các công sự vững chắc đã liên tục tập kích vào hai bên sườn các mũi tấn công kéo dài của quân đội Liên Xô, làm cho các cuộc tấn công của quân đội Liên Xô trở thành các trận tao ngộ chiến vỗ mặt và đem lại rất ít kết quả sau nửa tháng chiến đấu.[3]

Nhằm đẩy nhanh tốc độ tấn công của các Phương diện quân Ukraina 1 và 4 tại khu vực Đông Carpath, ngày 19 tháng 9, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô cử nguyên soái G. K. Zhukov, Phó tổng tư lệnh tối cao đến mặt trận này để giúp các tư lệnh chiến trường tháo gỡ những khó khăn. Ngay sau khi đến mặt trận, G. K. Zhukov đã phát hiện những thiếu sót của tướng A. A. Grechko trong sử dụng binh lực và ông yêu cầu phải đưa ngay Quân đoàn bộ binh sơn chiến 3 (Liên Xô) cùng Quân đoàn bộ binh 11 lên tuyến đầu để đối phó với Quân đoàn sơn chiến 49 (Đức). Ông cũng yêu cầu tướng Ye. P. Zhuravlyov phải huy động cả bốn sư đoàn thuộc Quân đoàn bộ binh cận vệ 18 vào tuyến tấn công.[23] Công binh sơn chiến cũng được huy động để mở thêm các con đường qua núi. Hệ thống cáp kéo được triển khai để đổ quân bất ngờ lên các điểm cao và tiếp tế cho bộ binh ở tuyến trước. Pháo binh cũng được lệnh tổ chức phối hợp trinh sát với bộ binh sơn chiến, sử dụng tối đa các khẩu đội súng phun lửa để vô hiệu hóa các hỏa điểm bê tông cốt thép của quân Đức.[24]

Ngày 20 tháng 9, Phương diện quân Ukraina 4 tiếp tục tấn công. Tuy nhiên, phải đến ngày 7 tháng 10, sau khi Tập đoàn quân 38 (Phương diện quân Ukraina 1) chiếm được đèo Dukla, Quân đoàn bộ binh sơn chiến 3 (Liên Xô) mới tiến vào được Comancha. Lợi dụng sự yếu kém của Tập đoàn quân 1 Hungary, ngày 5 tháng 10, Quân đoàn bộ binh cận vệ 17 (Liên Xô) mở cuộc tập kích vào cụm phòng thủ của các sư đoàn bộ binh 10 và 16 (Hungary) trên đèo Yablonitsky và ngày hôm sau đã có mặt ở sườn phía Nam dãy núi Đông Carpath. Ngày 12 tháng 9, quân đoàn này đánh chiếm thị trấn Sigesz và nhanh chóng phát triển sang phía Tây. Ngày 15 tháng 9, Sư đoàn bộ binh 138 và Sư đoàn đổ bộ đường không 2 (Liên Xô) đánh chiếm Khust và thẳng tiến dọc bờ Bắc sông Tisza về Chop. Đòn tập kích từ sau lưng của Quân đoàn bộ binh cận vệ 17 (Liên Xô) đã loại bỏ tác dụng của toàn bộ hệ thống phòng ngự của quân Đức ở Đông Carpath. Ngày 26 tháng 10, Tập đoàn quân 18 (Liên Xô) đánh chiếm Mucachevo. Ngày 27 tháng 10, Uzhgorod được giải phóng.[24][25]

Cuộc tấn công tập hậu của Quân đoàn bộ binh cận vệ 17 (Liên Xô) đã tạo điều kiện thuận lợi cho Tập đoàn quân cận vệ 1 vượt qua các cứ điểm phòng thủ dày đặc của quân Đúc tại tuyến Árpád. Ngày 30 tháng 9, tướng A. A. Grechko sử dụng Quân đoàn bộ binh 30 và Quân đoàn bộ binh 107 được tăng cường Lữ đoàn xe tăng cận vệ 5 và Trung đoàn pháo tự hành 875 ở cánh trái mở cuộc đột kích từ Solidka (Solinka) vào cụm cứ điểm Starina - Stakcin của quân Đức. Ngày 2 tháng 10, các xe tăng và pháo tự hành Liên Xô có bộ binh yểm hộ đã đánh tan hai cứ điểm phòng ngự tiền tiêu của quân Đức tại Zlava (???) và Ruskye (???). Ngày 5 tháng 10, các sư đoàn bộ binh 167 và 276 có xe tăng dẫn đầu đột nhập thị trấn Starina. Tướng Karl von Le Suire điều động các sư đoàn bộ binh sơn chiến 100 và 101 từ Stalcin kéo lên phản kích nhưng không chiếm lại được Starina. Ở giữa mặt trận, tướng Rudolf Bünau điều các sư đoàn bộ binh 168 và 254 tấn công vào Zlava với ý đồ kéo cụm quân xung kích trên cánh trái của Tập đoàn quân cận vệ 1 lùi về. Cuộc tấn công của quân Đức không đạt được ý đồ ban đầu. Quân đoàn bộ binh 11 (Liên Xô) có Trung đoàn pháo tự hành 1511 và 2 trung đoàn lựu pháo yểm hộ đã chặn đứng cuộc tấn công của quân Đức trên sườn núi phía Tây tại tuyến Palota - Lupkuw - Telepovitse (???).[26]

Trên cánh trái phải của Tập đoàn quân cận vệ 1, ngày 10 tháng 10 năm 1944, Quân đoàn bộ binh sơn chiến 3 được tăng cường Lữ đoàn xe tăng cận vệ 31 và Trung đoàn xe tăng cận vệ đã đột kích từ tuyến Habura - Kalinow (Kalinov) vào Borov, Medzilaborce và đánh chiếm hai ngôi làng nằm bên sườn phía Nam dãy núi chính. Đòn tấn công thứ hai buộc tướng Rudolf Bünau, tư lệnh Quân đoàn bộ binh 11 (Đức) phải bỏ dở cuộc tập kích vào Zlava và điều Sư đoàn 96 cùng với Sư đoàn bộ binh 6 (Hungary) sang hướng Tây để chặn cánh quân xe tăng Liên Xô đang tiến đến Cabyni (Cabiny). Từ ngày 10 đến ngày 20 tháng 10, Các quân đoàn bộ binh 11, 30, 107 và Quân đoàn bộ binh sơn chiến 3 (Liên Xô) đã đổ quân xuống sườn phía Nam dãy núi Carpath, uy hiếp toàn bộ hệ thống phòng thủ của quân Đức dọc theo sông Laborec đến Srina.[24]

Để ngăn chặn sự sụp đổ của mặt trận quân Đức tại Slovakia, từ ngày 20 tháng 10, tướng Gotthard Heinrici nhanh chóng rút Tập đoàn quân xe tăng 1 và Tập đoàn quân 17 khỏi tuyến phòng thủ Árpád và thiết lập tuyến phòng thủ mới từ Jasło qua Svidnik, Snina đến Chop, tạm thời chặn được cuộc tấn công của quân đội Liên Xô trên tuyến này. Cũng từ ngày 20 tháng 10, Cụm tập đoàn quân "Bắc Ukraina" (Đức) đổi thành Cụm tập đoàn quân A.

Sau một tháng dừng lại để củng cố binh lực và điều chỉnh lại đội hình, ngày 23 tháng 11, cả bốn quân đoàn của Tập đoàn quân cận vệ 1 (Liên Xô) lại đồng loạt chuyển sang tấn công. Từ Medzilaborce và Vysna Jablonka, Quân đoàn bộ binh sơn chiến 3 (Liên Xô) mở cuộc tấn công về hướng Stropkow (Stropkov) và Kelca, đánh bật Sư đoàn bộ binh 168 (Đức) sang bờ Tây sông Ondava, đánh thiệt hại nặng Sư đoàn bộ binh 96 (Đức). Ở cánh trái, ngày 24 tháng 11, tướng A. A. Grechko tập trung các quân đoàn bộ binh 11 và 107 cùng toàn bộ xe tăng và 2/3 lực lượng pháo binh của Tập đoàn quân cận vệ 1 tấn công mãnh liệt vào thành phố Mikhailovce (Michalovce). Ngày 26 tháng 10, Quân đoàn bộ binh 11 chiếm Mikhailovce. Quân đoàn bộ binh sơn chiến 49 (Đức) của tướng Karl von Le Suire bị thiệt hại nặng. Lo sợ bị bao vây, tướng Rudolf Bünau phải cho rút Sư đoàn bộ binh 254 sang bờ Tây sông Ondava. Ngày 30 tháng 11, toàn bộ Tập đoàn quân cận vệ 1 đã tiến ra tuyến sông Ondava. Các sư đoàn bộ binh 167, 271 và 276 (Liên Xô) đã vượt sông Ondava tại Trhoviste và đánh chiếm một đầu cầu rộng 7 km, sâu 2 km tại khu vực Sekovce - Sekovka Polyanka (Secovska Polyana) - Sacurov, sau này trở thành bàn đạp chủ yếu của Tập đoàn quân cận vệ một trong chiến dịch Tây Carpath.[27]

Sau chiến dịch, Quân đội Liên Xô cũng có sự điều chỉnh đội hình để các tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 và 4 có thể tập trung vào hai hướng chiến lược tương đối xa nhau là Berlin và Praha. Ngày 29 tháng 11, Bộ Tổng tham mưu Liên Xô đề nghị STAVKA ra mệnh lệnh điều chuyển Tập đoàn quân 38 từ Phương diện quân Ukraina 1 đến Phương diện quân Ukraina 4. Mặc dù I. S. Konev không đồng ý nhưng Tổng tư lệnh tối cao I. V. Stalin vẫn chuẩn y đề nghị của Bộ Tổng tham mưu.[28]

Khởi nghĩa Slovakia

Tình hình Slovakia từ 1939 đến 1944

Quân đội Đức Quốc xã chiếm đóng Slovakia (Presov, mùa hè năm 1944)

Sau khi Đức Quốc xã thôn tính phần Đông Tiệp Khắc (cũ), tại lãnh thổ này hình thành các thể chế chính trị khác nhau. Ngày 19 tháng 3 năm 1939, vùng Séc (gồm BohemiaMorava) ở phía Tây bị nước Đức Quốc xã đặt dưới chế độ bảo hộ. Tháng 3 năm 1939, tại vùng Slovakia ở phía Đông hình thành chế độ Cộng hòa Slovakia (lần thứ nhất) thân Đức do Josef Tiso làm thủ tướng. Chính phủ Cộng hòa Tiệp Khắc lần thứ nhất do Edvard Beneš lãnh đạo bỏ chạy sang Anh và trở thành chính phủ Tiệp Khắc kháng chiến (thường được gọi là Chính phủ Tiệp Khắc lưu vong). Từ trước năm 1939, Chính phủ Liên Xô đã công nhận chính phủ của Edvard Beneš là chính phủ hợp pháp duy nhất của Tiệp Khắc. Hai bên đã có một hiệp định hợp tác quân sự.[29][30] Năm 1943, Liên Xô chính thức công nhận Chính phủ Tiệp Khắc ở London là một thành viên trong khối đồng minh chống phát xít. Chính phủ của Edvard Beneš cũng đặt một phái đoàn quân sự tại Moskva bên cạnh cơ quan đại diện ngoại giao Tiệp Khắc do tướng Heliodor Píka đứng đầu. Đầu năm 1944, tướng Heliodor Píka cho biết Chính phủ của Edvard Beneš nhận định các lực lượng yêu nước Slovakia trong nước có thể tiến hành một cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại nước Đức Quốc xã. Họ đề nghị Chính phủ Liên Xô chi viện khi cuộc khởi nghĩa nổ ra. Tháng 6 năm 1944, Liên Xô và Tiệp Khắc ký kết một thỏa ước quân sự cho phép quân đội Liên Xô được tiến hành các hoạt động vũ trang trên lãnh thổ Tiệp Khắc, bao gồm cả Slovakia.[31]

Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô được lệnh tìm hiểu rõ hơn những vấn đề về khả năng khởi nghĩa tại Slovakia. Và kết quả là có nhiều tin tức mâu thuẫn nhau được đưa đến từ nhiều nguồn. Nguồn tin từ chính phủ Edvard Beneš cho thấy chính phủ này dự định sử dụng lực lượng phản chiến trong quân đội ngụy Slovakia làm nòng cốt, với sự chi viện của hai lữ đoàn đổ bộ đường không Tiệp Khắc (đang được xây dựng tại Liên Xô) và ít nhất là hai sư đoàn bộ binh Liên Xô cùng 50.000 cơ số vũ khí bộ binh. Các chuyên gia quân sự của Edvard Beneš ở London trù tính rằng các sư đoàn Slovakia phản chiến sẽ dựa vào địa hình hiểm trở để trấn giữ dãy núi Tatra ở phía Bắc, dựa vào các con sông Váh, Hron và rừng núi để phòng thủ ở phía Tây. Trên hướng Nam tiếp giáp với Hungary là nơi đồng bằng trống trải, họ sẽ dựa vào không quân Anh - Mỹ oanh tạc để ngăn cản cuộc tấn công của quân Đức.[32]

Nguồn tin từ Hội đồng dân tộc Slovakia (SNR) và Đảng Cộng sản Slovakia (hoạt động bí mật) cho thấy Hội đồng này dự định sử dụng lực lượng phối hợp giữa các sư đoàn quân đội Slovakia phản chiến với các lực lượng du kích đang hoạt động trên lãnh thổ Slovakia. Họ cho rằng quân đội Slovakia được trang bị và huấn luyện kém, không đủ sức chống lại hai tập đoàn quân Đức (Tập đoàn quân xe tăng 1 và Tập đoàn quân 17) đang có mặt tại Slovakia, chưa tính đến Tập đoàn quân Hungary 1. Những người yêu nước Tiệp Khắc cũng đề nghị Quân đoàn Tiệp Khắc 1 (được nâng cấp từ Lữ đoàn Tiệp Khắc 1 ngày 10 tháng 4 năm 1944) và quân đội Liên Xô chi viện cho cuộc khởi nghĩa.[15]

Các tính toán của những chuyên gia quân sự thuộc Bộ Tổng tham mưu Liên Xô cho thấy kế hoạch của Chính phủ Edvard Beneš chỉ xuất phát từ nguyện vọng chứ không tính đến các điều kiện thực tế. Đối với phương án đổ bộ 2 sư đoàn Liên Xô bằng đường không xuống Slovakia, phía Liên Xô cần tới gần 1.000 chuyến bay của máy bay C-47, mỗi chiếc chỉ chở được không quá 28 người với trang bị, vũ khí hoặc 3 tấn hàng. Trong khi đó, toàn bộ số máy bay vận tải của các Phương diện quân Ukraina 1 và 4 hiện có không quá 170 chiếc. Ngay cả việc đổ 2 sư đoàn Liên Xô vào Slovakia, cộng với 2 sư đoàn Slovakia thì ưu thế áp đảo về binh lực tại miền Trung Slovakia vẫn thuộc về quân Đức. Phương án khả thi nhất là chi viện cho cuộc khởi nghĩa từ trên bộ. Tuy nhiên, đến tháng 8 năm 1944, trên hướng tấn công gần nhất của quân đội Liên Xô từ phía Ba Lan, các đơn vị tiền tiêu vẫn còn cách xa biên giới Slovakia hơn 100 km trong khi quân Đức đã bố trí tuyến phòng thủ rất mạnh ở khu vực dãy núi Đông Berkids trấn giữ các con đèo qua núi. Các tính toán cũng chỉ ra rằng dù quân đồng minh Anh-Mỹ có huy động hết số máy bay ném bom chiến lược có tại châu Âu cũng không thể ngăn cản được 3 sư đoàn Đức và 2 sư đoàn Hungary xâm nhập Slovakia từ đồng bằng Hungary.[3]

Tình hình chính trị bên trong lãnh thổ Slovakia cũng khá phức tạp. Một số quan chức cao cấp trong chính quyền thân Đức của Josef Tiso như Ferdinand Čatloš, Bộ trưởng Quốc phòng Slovakia đã dự định bắt tay với Liên Xô và bỏ rơi các chính khách ở London. Tướng Ján Golian, Tham mưu trưởng lục quân Slovakia thì hợp tác với các thành viên của Hội đồng dân tộc Slovakia. Còn tướng Augustín Malár, chỉ huy Quân đoàn Đông Slovakia lại là một nhân vật hai mang. Trong khi đó, phần lớn các đội du kích Slovakia hoạt động bất hợp pháp đều có liên hệ với Bộ chỉ huy du kích Liên Xô tại Tây Ukraina.[33]

Cả cơ quan mật thám Gestapo, lực lượng an ninh Đức tại Slovakia, những người Cộng sản Slovakia và cả các tình báo viên của Chính phủ Edvard Beneš tại London đều nắm được ý định của Ferdinand Čatloš. Trong khi những người Cộng sản Slovakia lợi dụng chuyến bay sang Lvov của các đặc phái viên do Ferdinand Čatloš cử đi liên lạc với Liên Xô để cài vào đó Bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Slovakia, đồng chủ tịch Hội đồng dân tộc Slovakia (SNR) với Vavro Šrobár và trung tướng Mikuláš Ferjenčík đại diện cho Ủy ban quân sự thuộc SNR thì các mật báo viên của Gestapo và cơ quan tình báo quân sự Đức Abwehr cũng nắm được một số thông tin quan trọng về cuộc khởi nghĩa. Giống như ở Hungary tháng 10 năm 1944, Quân đội Đức Quốc xã quyết định ra tay trước.[34]

Phát động khởi nghĩa

Tiểu đoàn pháo phòng không 18 của quân khởi nghĩa Slovakia

Ngày 27 tháng 8, các sư đoàn bộ binh 357, 359 và 371 (Đức) và các sư đoàn bộ binh 6, 20 (Hungary) bắt đầu xâm nhập Slovakia. Bộ chỉ huy quân đội Slovakia bị đặt dưới quyền chỉ huy của Cụm tập đoàn quân "Bắc Ukraina". Ngày 28 tháng 8, tướng Augustín Malár, Chỉ huy Quân đoàn Đông Slovakia bị bắt và bị thẩm vấn. Qua ông này, Gestapo nằm được nhiều điều về kế hoạch khởi nghĩa. Dưới áp lực của các sư đoàn Đức, tướng Ferdinand Čatloš bị buộc phải tuyên bố giải giáp Quân đoàn Đông Slovakia. Các sư đoàn Slovakia bị cấm trại và bị tước vũ khí. Các tướng Ján Golian và Rudolf Viest nắm quyền lãnh dạo những người khởi nghĩa. Trước tình thế không thể lùi, đêm 29 rạng ngày 30 tháng 8, Chính phủ Edvard Beneš phát lời kêu gọi nhân dân Slovakia đứng lên khởi nghĩa vũ trang.[35]

Ban đầu, quân khởi nghĩa chỉ có 18.000 người. Đến ngày 5 tháng 9, quân số tham gia khởi nghĩa đã lên đến trên 47.000 người, được biên chế thành 16 tiểu đoàn và 8 đại đội độc lập. Họ có trang bị khoảng 46.000 súng trường, 4.000 tiểu liên. 2.700 trung liên, 200 pháo và súng cối, 24 xe tăng (các loại Pz 35(t), Pz 38(t), Pz 40(t) và Pz III), 4 pháo tự hành Marder II, 3 đoàn tàu bọc thép và 34 máy bay; chủ yếu là các máy bay kiểu cũ như Avia B-534, Letov S-328; số máy bay hiện đại chỉ có 10 chiếc Ju-87 và 2 chiếc Messerschmitt Bf 109G-6.

Trong giai đoạn đầu tiên, quân khởi nghĩa đã làm chủ các thành phố như Ružomberok, Banska Bystrica, Zvolen (sân bay Tri Duba), Poprad, Spišskej Novej Vsi, Vajnoroch (???), Trenčín, Žilina và Martin. Ở hướng Tây Bắc Slovakia, tiểu đoàn du kích do Ján Dobrovodský chỉ huy được triển khai tại Hričov thuộc quận Zilin; tiểu đoàn thứ hai được triển khai tại thị trấn Brodno và thung lũng Čadco. Tiểu đoàn thứ ba tấn công và đánh chiếm doanh trại quân Đức tại Rajecká và Bystrica – Rajec. Quân Đức điều một trung đoàn xung kích đến giữ thành phố Strečno, buộc những người khởi nghĩa phải rút về căn cứ của đội du kích người Pháp tại hẻm núi Strečno. Từ ngày 31 tháng 8 đến ngày 5 tháng 9, những trận đánh ác liệt diễn ra tại khu vực hẻm núi Strečno, làng Stráňavy, lâu đài cổ Starý hrad và dọc sông Váh giữa ba tiểu đoàn quân khởi nghĩa và trung đoàn xe tăng hạng nặng thuộc Sư đoàn cơ giới 178 Tatra (Đức) do tướng Von Loeper chỉ huy. Ngày 5 tháng 9, quân khởi nghĩa chặn được quân Đức trước cửa ngõ vào thành phố Turčiansky Svätý Martin. Cả hai bên đều thiệt hại đáng kể.

Ở Bắc Slovakia, ngày 31 tháng 9, Sư đoàn bộ binh 357 (Đức) đột nhập thị trấn Kežmarok và tấn công các tiểu đoàn du kích đang đóng tại Poprad và Levoča. Quân du kích không đủ lực lượng để kháng cự. Ngày 1 tháng 9, quân Đức chiếm lại Poprad và Levoča. Cuộc chiến giành giật sân bay Poprad diễn ra trong hai ngày liền giữa đại đội du kích độc lập gồm 140 người với một tiểu đoàn chính quy Đức. Ngày 3 tháng 9, quân Đức điều đến đây một tiểu đoàn xe tăng Pz-III và buộc quân khởi nghĩa phải rút lui. Ngày 3 tháng 9, lực lượng khởi nghĩa do đại úy Ján Juraj Stanek chỉ huy tập trung tiểu đoàn đặc nhiệm số 2 đánh chiếm Pusté Pole và Telgárt và giữ được hai vị trí này đến thời gian cuối của cuộc khởi nghĩa. Trong trận Telgárt, ít nhất 100 quân Đức đã thiệt mạng. Quân du kích ổn định được tuyến phòng thủ từ Đường hầm Chamrošský (???) qua Čršaľa (???) đến Čuntavska (???). che chở mặt bắc cho căn cứ khởi nghĩa tại Ružomberok.[36]

Tại vùng tiếp giáp giữa Slovakia và Bohemia-Moravia, ngày 31 tháng 9, Cụm tác chiến sư đoàn SS Schill do tướng Karl Friedrich von Pückler-Burghaus chỉ huy bắt đầu từ Nitra và Trnava tấn công quân khởi nghĩa tại phía Nam Turčiansky Svätý Martin. Ngày 1 tháng 9, quân Đức chiếm sân bay Trenčianske Biskupice. Ngày 2 tháng 9, quân Đức chiếm các thị trấn Piešťany, Trenčín và tấn công Baťovany (nay là Partizánske). Quân khởi nghĩa giữ được thị trấn này từ ngày 3 đến ngày 9 tháng 9 nhưng vẫn phải rút lui về Prievidza và núi Vtáčnik vì thiếu vũ khí chống tăng. Chỉ huy tiểu đoàn du kích, đại úy Adolf Weinhold bị quân Đức bắt được tại Malých Uherciach và bị sát hại. Ngày 13 tháng 9, quân Đức chiếm Nováky và một ngày sau đó, chiếm Prievidza. Ngày 8 và ngày 9 tháng 9 năm 1944, Tập đoàn quân 38 và Tập đoàn quân cận vệ 1 (Liên Xô) phát động chiến dịch Carpath - Dukla. Quân Đức buộc phải điều động một số sư đoàn đang đàn áp quân khởi nghĩa Slovakia lên hướng Dukla - Presov. Trận tuyến của quân khởi nghĩa tạm thời được ổn định. Riêng ở phía Tây Slovakia, Cụm tác chiến sư đoàn SS Schill (Đức) vẫn tiếp tục gây áp lực lên khu vực phía Nam Turčiansky Svätý Martin.

Giai đoạn ổn định

Đoàn xe quân sự của quân khởi nghĩa Slovakia

Tận dụng thời gian quân Đức tạm giảm bớt các cuộc tấn công, trong giai đoạn 2, quân khởi nghĩa Slovakia tiến hành chỉnh đốn tổ chức. Tướng Ján Golian được SNR chỉ định làm tổng chỉ huy quân khởi nghĩa. Ông tổ chức 6 cụm tác chiến, mỗi cụm tương đương một sư đoàn, được biên chế lực lượng pháo binh, công binh và thông tin. Quân Đức cũng điều động thêm lực lượng đến Slovakia. Sư đoàn bộ binh 208 được điều đến Považie (???), Sư đoàn bộ binh 371 được điều đến Ponitrie. Ở phía Tây Slovakia, ngày 14 tháng 9, Cụm tác chiến sư đoàn SS Schill đánh chiếm Žarnovica và Prievidza. Ngày 15 tháng 9, tướng Ján Golian ra lệnh cho Lữ đoàn đặc nhiệm 4 và Lữ đoàn du kích của Ján Nálepka chiếm lại Prievidza. Cuộc tấn công thất bại. Ngày 19 tháng 9, Cụm tác chiến sư đoàn SS Schill tấn công Turca (???) và uy hiếp Pohronie (???). Cụm tác chiến số 5 của quân khởi nghĩa rơi vào nguy cơ bị bao vây bởi Sư đoàn cơ giới 178 Tatra (Đức). Ngày 21 tháng 9, tướng Ján Golian ra lệnh cho Cụm tác chiến 5 bỏ ngỏ Turca rút về Banska Bystrica. Cùng ngày, SNR ban bố mệnh lệnh quy định Banska Bystrica là thành phố mặt trận.[37]

Để cứu nguy cho các căn cứ chính của cuộc khởi nghĩa, từ ngày 15 đến ngày 21 tháng 9, các lữ đoàn đổ bộ đường không Tiệp Khắc 1 và 2 được máy bay Liên Xô đổ xuống Banska Bystrica. Trung đoàn không quân Tiệp Khắc 1 cất cánh từ Lvov cũng hạ cánh xuống các sân bay Banska Bystrica và Ružomberok. Một cầu hàng không được thiết lập nối Banska Bystrica, Tri Duba và Ružomberok với các căn cứ không quân Liên Xô. Hơn 10.000 súng bộ binh cá nhân, khoảng 1.000 trung liên, hàng trăm súng chống tăng và hơn 3 triệu viên đạn các loại đã được không quân Liên Xô chở đến các căn cứ của quân khởi nghĩa.[15][38] Ngày 17 tháng 9, 4 máy bay B-17 của không quân Mỹ do đại úy James Holt Green chỉ huy cũng hạ cánh xuống sân bay Tri Duba, mang theo súng bộ binh, mìn chống tăng và một số súng chống tăng "Bazooka". Ngày 20 tháng 9, không quân đồng minh tập kích vào sân bay Nový Dvor gần Malacky, đánh hỏng đường băng, diệt 6 chiếc Ju-87, 2 chiếc He-111, 3 chiếc Ju-88, làm hư hỏng một số máy bay Ju-52, Bf-110Do-17. Quân Đức buộc phải tạm ngừng sử dụng sân bay Nový Dvor một thời gian và huy động các căn cứ không quân tại Hungary để thay thế. Ngày 26 tháng 9, một phái bộ quân sự Anh cũng nhảy dù xuống Slovakia để giúp đỡ lực lượng khởi nghĩa về tổ chức tác chiến. Với sự giúp đỡ của quân đồng minh, quân khởi nghĩa Slovakia đã ổn định chiến tuyến của mình đến đầu tháng 10 năm 1944, binh lực của họ tăng lên đến 60.000 người, được tổ chức thành 44 tiểu đoàn bộ binh, 6 tiểu đoàn pháo binh và 32 khẩu đội phòng không.

Sau khi chặn được cuộc tấn công của Quân đội Liên Xô trên tuyến sông Ondava, quân đội Đức Quốc xã tập trung trấn áp cuộc khởi nghĩa Slovakia. Ngày 8 tháng 10, tướng SS Hermann Höffle, chỉ huy các lực lượng Đức tại Slovakia điều động đến Slovakia Sư đoàn xe tăng xung kích 18 SS và Sư đoàn bộ binh xung kích 14 SS. Ngày 10 tháng 10, có thêm Lữ đoàn sơn chiến 2 SS được điều từ Ba Lan đến. Binh lực của quân đội Đức Quốc xã triển khai tại Slovakia để chống lại cuộc khởi nghĩa lên đến 4 sư đoàn, 1 cụm tác chiến sư đoàn và 1 lữ đoàn. Tuy binh lực tương đương nhau về quân số nhưng quân Đức vẫn chiếm ưu thế áp đảo về xe tăng, pháo binh và không quân. Ngày 3 tháng 10 năm 1944, Cụm tác chiến sư đoàn SS Schill chia làm hai cánh tiếp tục tấn công các Cụm tác chiến 3 và 4 của quân khởi nghĩa trên hướng tây Slovakia. Cánh quân thứ nhất vượt qua các cầu chưa bị phá hủy trên sông Hron và tiến về Zvolen. Cánh quân thứ hai tấn công Oslian (???), Žarnovica và uy hiếp Banská Štiavnica. Quân khởi nghĩa dựa vào các tòa nhà kiên cố để phòng ngự với sự yểm hộ của hai đoàn tàu hỏa bọc thép và chống giữ được mấy ngày. Ngày 9 tháng 10, Banská Štiavnica rơi vào tay quân Đức. Những lực lượng khởi nghĩa còn lại của quân khởi nghĩa thuộc các cụm tác chiến 3 và 4 tập trung giữ sân tay Tri Duba, sân bay lớn cuối cùng ở Trung Slovakia do quân khởi nghĩa kiểm soát. Lữ đoàn đổ bộ đường không Tiệp Khắc 2 được điều đến mặt trận Zvolen cùng với Đoàn tàu bọc thép số 3 đã giúp quân khởi nghĩa tiếp tục cầm chân quân Đức tại phía Nam sân bay Try Duba đến ngày 26 tháng 10.[39]

Trong khi tình hình quân khởi nghĩa đang gặp khó khăn và quân đội Liên Xô vẫn đang chiến đấu để giành từng mét đất trên con đường tiến đến đèo Dukla thì nội bộ quân khởi nghĩa lại có những sự chia rẽ nghiêm trọng. Ngày 7 tháng 10 năm 1944, tướng Rudolf Viest được Chính phủ Edvard Beneš giao toàn quyền chỉ huy Quân đoàn Tiệp Khắc 1 của Slovakia (Chính phủ Tiệp Khắc ở London đặt tên cho quân khởi nghĩa Slovakia như vậy). Trong một động thái theo kiểu "chưa săn được gấu đã đòi chia da", ngày hôm sau, Bộ trưởng Frantisek Nemec trong chính phủ Beneš cũng bay tới vùng giải phóng ở Slovakia để tiếp nhận các quyền lực chính trị. SNR phản đối quyết định của London và họ quyết định cử một đoàn đại biểu đi London để nói chuyện với Edvard Beneš. Đoàn đại biểu này đi trên các máy bay B-17 của Mỹ đang vận chuyển vũ khí và thiết bị y tế đến Zvolen và đưa trở lại phía Tây 25 phi công Anh, Mỹ và 6 phi công Pháp bị không quân Đức bắn rơi trên không phận vùng giải phóng Slovakia.

Trước tình hình ngày một xấu đi, SNR và các tướng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa quyết định vận chuyển ra khỏi Slovakia ngân khố của quân khởi nghĩa trị giá khoảng 3 triệu kuron cùng 157 kg vàng, 569 kg bạc và 133 kg kim loại quý khác. Tất cả đều được bí mật chở đi bằng máy bay Liên Xô từ Banska Bystrica đến Moskva và giao cho phái bộ quân sự Tiệp Khắc của tướng Heliodor Píka.[40] Từ hướng đèo Dukla, trong các ngày từ 14 đến 17 tháng 10 năm 1944, Quân đoàn Tiệp Khắc 1 liên tục tiến hành nhiều trận đột phá để kết nối liên lạc với quân khởi nghĩa nhưng các nỗ lực của họ để xâm nhập vào phía sau phòng tuyến của quân Đức đều không thành công. Phòng tuyến của quân Đức trên các dãy điểm cao 562, 576, 532, 541, 517, 433, 536, 481, 332, 471, 627, 518 gần đèo Dukla vẫn rất vững chắc [41]

Quân đội Đức Quốc xã dập tắt cuộc khởi nghĩa

Đoan tàu bọc thép của quân khởi nghĩa Slovakia (Hiện vật lịch sử quốc gia Slovakia trưng bày tại Bảo tàng Zvolen)

Ngày 18 tháng 10, tướng Hermann Höffle phát động cuộc tổng tấn công vào tất cả các căn cứ lớn của quân khởi nghĩa Slovakia. Chiến dịch tảo thanh bắt đầu bằng cuộc không kích vào Banska Bystrica. Cùng ngày, Sư đoàn bộ binh xung kích 14 SS và Lữ đoàn sơn chiến 2 SS tấn công khu vực Ružomberok - Martin, Sư đoàn xe tăng 18 SS tấn công khu vực Jelšava – Rimavská Sobota – Lučenec, Cụm tác chiến Wittenmayer tấn công khu vực Kráľova Lehota – Liptovský Mikuláš. Từ phía Đông, các sư đoàn bộ binh 357, 359 và 371 (Đức) tấn công lên cao nguyên Rutnyi Slovakia. Ở hướng Tây Cụm tác chiến sư đoàn SS Schill tiếp tục công kích Zvolen và Banska Bystrica, trung tâm đầu não của cuộc khởi nghĩa và các thành phố Liptov Osady (???) và Breznas, gây nhiều thương vong cho thường dân. Ngày 19 tháng 10, Sư đoàn xe tăng 18 SS chiếm các thị trấn Revúca và Muráň và tiến về Červena Skala. Ngày 21 tháng 10, quân khởi nghĩa triển khai phòng thủ tại Tisovec và điều đoàn tàu bọc thép Masaryk về giữ Červena Skala. Các đơn vị du kích rút về Hạ Tatra qua Šumiac và Heľpa. Ngày 22 tháng 10, Sư đoàn xe tăng 18 SS (Đức) chiếm Rimavská Baňa. Cùng ngày, không quân Đức tấn công đoàn tàu bọc thép đang di chuyển từ Zvolen đi Lučenec.

Ngày 23 tháng 10, Sư đoàn dã chiến Hlinka thuộc quân đội Slovakia trung thành với Josef Tiso bất ngờ tấn công và đột nhập vào các khu phòng thủ Podkriváňa (???) và Detvy (???), đánh chiếm Brezno và Ostro (???)+. Ngày 25 tháng 10, tướng Rudolf Viest đạt được thỏa thuận với lữ đoàn du kích "Stalin" do Đảng Cộng sản Slovakia lãnh đạo về việc Bộ chỉ huy quân khởi nghĩa sẽ rút lui về các căn cứ của lữ đoàn này. SNR cũng chuyển trụ sở đến làng Donovaly, phía Bắc Banska Bystrica do quân Đức đã đẩy lùi Lữ đoàn đổ bộ đường không Tiệp Khắc 2 về sát ngoại ô thành phố. Sân bay Tri Duba bị đặt trong tầm pháo bắn thẳng của quân Đức. Tướng Rudolf Viest phải ra lệnh cho Trung đoàn không quân Tiệp Khắc 1 hạ cánh xuống các sân bay của Tập đoàn quân không quân 8 (Liên Xô). Ngày 27 tháng 10, Cụm tác chiến sư đoàn Schill (Đức) đánh chiếm Banska Bystrica. Các lực lượng khởi nghĩa còn lại tan rã. Một bộ phận rút vào vùng núi Tatra và sáp nhập với các đội du kích. Một bộ phận khác bỏ về quê nhà và phần lớn số này đã bị quân Đức và cảnh sát của chính quyền Tiso bắt giam.

Ngày 30 tháng 10 năm 1944, tướng SS Hermann Höffle tổ chức một cuộc duyệt binh lớn tại Banska Bystrica với sự tham gia của Josef Tiso, tổng thống chính quyền bù nhìn Slovakia. Ông này đã công khai cảm ơn Hitler và lực lượng SS. Ngày 3 tháng 11, các tướng Rudolf Viest, Ján Golian và một số sĩ quan tùy tùng bị quân SS bắt tại làng Pohronský Bukovec khi đang chuẩn bi vượt sông Hron. Cuộc khởi nghĩa Slovakia thất bại. Quân khởi nghĩa mất 10.000 đến 12.000 người chết, hơn 10.000 người khác bị bắt vào các trại tập trung của Đức, 3.600 người bị thương còn sống sót, trong đó có hơn 700 người được sơ tán sang Liên Xô. Nhiều người bị bắt, trong đó có các tướng Rudolf Viest và Ján Golian đã bị lực lượng SS giết chết trong trại tập trung. Quân khởi nghĩa mất tất cả các trang bị nặng của họ gồm xe tăng, máy bay, các đoàn tàu bọc thép, phần lớn pháo và súng cối. Quân đội Đức Quốc xã cũng mất 4.200 người chết, 5.000 người bị thương, 300 người bị bắt.

Những đơn vị khởi nghĩa còn sống sót vẫn tiếp tục hoạt động trong hàng ngũ các đội du kích ở Slovakia cho đến tháng 1 năm 1945, khi quân đội Liên Xô mở Chiến dịch Tây Carpath, giải phóng toàn bộ Slovakia.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_dịch_Đông_Carpath http://www.armchairgeneral.com/rkkaww2/maps/1944SW... http://www.armchairgeneral.com/rkkaww2/maps/1944SW... http://www.armchairgeneral.com/rkkaww2/maps/1944SW... http://www.armchairgeneral.com/rkkaww2/maps/1944SW... http://www.armchairgeneral.com/rkkaww2/maps/1944SW... http://www.dynamiclink.com/dukla/dukla_operation.h... http://www.historytoday.com/martin-d-brown/soe-and... http://ua-reporter.com/novosti/39115 http://www.youtube.com/watch?v=YdBQEMTU66o http://www.fronta.cz/pics/clanky/honza/dukla_plan....